Việt Nam English

Hệ thống giáo dục tại Hà Lan

Hệ thống giáo dục tại Hà Lan được xem là chất lượng bậc nhất châu Âu bởi tính khoa học và chặt chẽ trong phân loại học sinh, định hướng nghề nghiệp và tính ứng dụng cao.

Giáo dục Hà Lan được chia làm 3 cấp học: Tiểu học, trung học, đại học.

Giáo dục tiểu học

Trẻ em dưới 5 tuổi không bị bắt buộc phải đến trường, tuy nhiên trẻ em được phép đi học khi 4 tuổi. Giáo dục tiểu học kéo dài 8 năm (trong đó có 7 năm là bắt buộc). Đến năm cuối cùng của bậc tiểu học, học sinh sẽ được tư vấn để lựa chọn hình thức học trung học phù hợp.

Giáo dục trung học

Giáo dục trung học bắt đầu từ 12 tuổi và bắt buộc cho đến tuổi 16, được cung cấp dưới nhiều hình thức và ở các cấp độ khác nhau.

Các chương trình Vmbo (4 năm) kết hợp giáo dục tổng quát và dạy nghề và chuẩn bị cho học sinh đi học nghề trung học phổ thông (Mbo), kéo dài từ 1 đến 4 năm.

Có hai loại giáo dục tổng quát cho phép nhập học vào giáo dục đại học: Havo (5 năm) và Vwo (6 năm). Học sinh theo học dựa vào khả năng của mình. Hai năm cuối cùng của Havo và ba năm cuối cùng của Vwo được gọi là 'Giai đoạn thứ hai' (tweedefase), hoặc trung học phổ thông. Trong những năm này, học sinh tập trung vào một trong bốn cụm chủ đề (profielen), trong đó mỗi nhóm tập trung nghiên cứu một lĩnh vực nhất định ngoài việc đáp ứng yêu cầu của giáo dục tổng quát. Mỗi cụm được thiết kế để chuẩn bị cho học sinh đi học ở bậc đại học. Một học sinh ghi danh vào một trường học Vwo hay Havo có thể chọn từ các nhóm môn học sau đây:

1. Khoa học và Công nghệ (Natuur en Techniek)

2. Khoa học và Y tế (Natuur en Gezondheid)

3. Kinh tế và Xã hội (Economie en Maatschappij)

4. Văn hoá và Xã hội (Cultuur en Maatschappij)

Chỉ có bằng tốt nghiệp khóa học kéo dài 6 năm Vwo cho phép tiếp cận các chương trình cử nhân tại các trường đại học nghiên cứu. Bằng cấp Havo và cấp cao nhất của Mbo được theo học tại các chương trình cử nhân tại các trường đại học khoa học ứng dụng.

hệ thống giáo dục hà lan

Giáo dục đại học

Giáo dục đại học ở Hà Lan có hai loại hình tổ chức: các trường đại học nghiên cứu và các trường đại học khoa học ứng dụng. Các trường đại học nghiên cứu bao gồm các trường đại học tổng hợp, các trường đại học chuyên về kỹ thuật và nông nghiệp, và Đại học Mở. Các trường đại học về khoa học ứng dụng bao gồm các viện nghiên cứu chung cũng như các tổ chức chuyên về một lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn hoặc giáo viên.

Các trường đại học nghiên cứu chủ yếu chịu trách nhiệm về việc cung cấp các chương trình theo định hướng nghiên cứu, các trường đại học khoa học ứng dụng chủ yếu chịu trách nhiệm cung cấp các chương trình giáo dục chuyên nghiệp nhằm chuẩn bị cho sinh viên theo các ngành cụ thể. Những chương trình này có tính thực hành cao hơn các chương trình được cung cấp bởi các trường đại học nghiên cứu.

Có 3 loại bằng được cấp là bằng cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Học sinh được nhận bằng liên kết khi theo học chương trình giáo dục đại học ngắn hạn, được cung cấp bởi các trường đại học khoa học ứng dụng. Các chương trình đào tạo và thời gian học được định lượng theo hệ thống tín chỉ ECTS.

Trọng tâm của các chương trình học xác định cả số tín chỉ cần có để hoàn thành chương trình và bằng cấp được trao. Một chương trình cử nhân theo định hướng nghiên cứu đòi hỏi phải hoàn thành 180 tín chỉ (ba năm) và sinh viên tốt nghiệp có bằng Cử nhân Khoa học xã hội hoặc Cử nhân Khoa học tự nhiên (BA/BSc), tùy thuộc vào chuyên môn.

Thông thường, bằng cử nhân về khoa học ứng dụng đòi hỏi 240 tín chỉ (4 năm), và sinh viên tốt nghiệp có bằng đại học về lĩnh vực mình đã học (ví dụ: Cử nhân Kỹ sư, B Eng, hoặc Cử nhân điều dưỡng, B Nursing). Học sinh có bằng tốt nghiệp vwo có thể được miễn một năm học, cho phép họ hoàn thành chương trình cử nhân về khoa học ứng dụng trong ba năm (sau khi hoàn thành 180 tín chỉ). Một bằng liên kết về khoa học xã hội và khoa học ứng dụng đòi hỏi 120 tín chỉ (2 năm), và sinh viên hoàn thành chương trình 2 năm có thể tiếp tục học để lấy bằng cử nhân về khoa học xã hội và khoa học ứng dụng.

Chương trình thạc sĩ nghiên cứu yêu cầu hoàn thành 60, 90 hoặc 120 tín chỉ (1, 1,5 hoặc 2 năm). Riêng lĩnh vực kỹ thuật, nông nghiệp, và toán học và khoa học tự nhiên, 120 tín chỉ luôn luôn được yêu cầu.

Sinh viên tốt nghiệp có bằng Thạc sỹ khoa học xã hội hoặc Thạc sĩ khoa học tự nhiên (MA/MSc). Một bằng thạc sĩ khoa học ứng dụng đòi hỏi phải hoàn thành từ 60 đến 120 tín chỉ và sinh viên tốt nghiệp có bằng đại học về lĩnh vực nghiên cứu (Thạc sĩ Kiến trúc, M Arch).

Giai đoạn ba của giáo dục đại học, cấp bằng tiến sĩ hoặc tiến sĩ chuyên nghiệp về kỹ thuật (PDEng) chỉ được cung cấp bởi các trường đại học nghiên cứu. Yêu cầu chính cho tiến sĩ, được cung cấp bởi tất cả các trường đại học nghiên cứu, là hoàn thành một luận án dựa trên nghiên cứu ban đầu được bảo vệ công khai. Ngoài các chương trình tiến sĩ, ba trường đại học kỹ thuật còn cung cấp các chương trình thiết kế công nghệ bao gồm nghiên cứu tiên tiến và thiết kế cá nhân trong một số lĩnh vực kỹ thuật. Chương trình thiết kế kỹ thuật đòi hỏi hai năm nghiên cứu để hoàn thành và sinh viên tốt nghiệp có bằng Tiến sĩ Kỹ thuật Kỹ thuật (PDEng). Việc đào tạo chuyên gia y tế là trách nhiệm của nhóm chuyên môn trong một môi trường tổ chức tại bệnh viện đại học.

Hệ thống tín chỉ và phân loại

Khối lượng học tập của một học sinh được đo bằng tín chỉ ECTS. Theo luật của Hà Lan, một tín chỉ đại diện cho 28 giờ học và 60 tín chỉ đại diện cho một năm học toàn thời gian. Hệ thống chấm điểm được sử dụng tại Hà Lan có thang từ 1 (thấp nhất) đến 10 (vượt trội). Điểm đậu thấp nhất là 6; 9 điểm là hiếm và 10 điểm là rất hiếm. Điểm số 1-3 thường không được sử dụng. Năm học là 42 tuần.



Bài liên quan